KTCT hè 2025

https://www.studocu.vn/vn/document/hoc-vien-cong-nghe-buu-chinh-vien-thong/kinh-te-chinh-tri-mac-le-nin/dc-ktct-de-cg-kinh-te-chinh-tri/109389904

C 1: Hãy phân tích những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và lấy ví dụ minh họa?

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một mô hình kinh tế thị trường đặc thù, phù hợp với điều kiện lịch sử, trình độ phát triển và hoàn cảnh chính trị - xã hội của Việt Nam. Mô hình này kết hợp những ưu điểm của kinh tế thị trường hiện đại với bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội, hướng tới một nền kinh tế văn minh.

Sau đây là những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:

Những đặc trưng này cho thấy sự kết hợp linh hoạt giữa các quy luật thị trường và sự điều tiết của Nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.

Câu 2: Hãy phân tích những quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản ở Việt Nam hiện nay và lấy ví dụ minh họa?

Để phân tích các quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản ở Việt Nam hiện nay, chúng ta trước hết cần hiểu rõ các khái niệm về lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế.

1. Khái niệm lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế

2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế

Các quan hệ lợi ích kinh tế vừa có sự thống nhất, vừa có sự mâu thuẫn.

3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế

Các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều nhân tố:

4. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản ở Việt Nam hiện nay

Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, có một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản sau:

5. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có hai phương thức cơ bản để thực hiện lợi ích kinh tế:

Tóm lại, các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay đa dạng và phức tạp, vừa mang tính thống nhất vừa tồn tại mâu thuẫn. Việc nhận diện, điều hòa và giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích này là rất quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

(xem lại) Câu 3: Phân tích tính tất yếu khách quan phải tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay? Liên hệ trách nhiệm của sinh viên đóng góp vào thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước? (lấy ví dụ minh họa cụ thể)

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ việc sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Hiện nay, Việt Nam phải tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tính tất yếu khách quan xuất phát từ những lý do cơ bản sau:

Trách nhiệm của sinh viên đóng góp vào thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước:

Sự thích ứng với những tác động mới của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước hay doanh nghiệp mà là của toàn dân, mỗi công dân, trong đó mỗi sinh viên cần ý thức được những tác động mới để có giải pháp tích cực, phù hợp. Vai trò của sinh viên đặc biệt quan trọng trong bối cảnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để thích ứng với CMCN 4.0.

Để đóng góp vào thành công của quá trình CNH, HĐH, sinh viên cần:

Câu 4: Hãy phân tích những tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam và lấy ví dụ minh họa?

Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình mà Việt Nam gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới, dựa trên sự chia sẻ lợi ích và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung. Quá trình này mang lại cả những tác động tích cực và tiêu cực đáng kể đối với sự phát triển của Việt Nam.

1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là một xu thế tất yếu mà còn mang lại những lợi ích to lớn cho sự phát triển của Việt Nam, cũng như những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng.

2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế

Bên cạnh những lợi ích, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều rủi ro, bất lợi và thách thức cho Việt Nam.

Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả rất khó lường. Do đó, việc tranh thủ thời cơ và vượt qua thách thức là vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng đối với Việt Nam.

CÁC CÂU NHẬN ĐỊNH

1. Điều kiện cần và đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển là sự phân công lao động xã hội.

Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài người. Nền kinh tế hàng hóa chỉ có thể hình thành và phát triển khi có hai điều kiện cơ bản sau đây cùng tồn tại:

  1. Một là, phân công lao động xã hội.

    • Khi mỗi người sản xuất chỉ tập trung vào một hoặc một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau, thì tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau để thỏa mãn nhu cầu của mình. Đây là điều kiện cần nhưng chưa đủ.
  2. Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.

    • Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho những người sản xuất độc lập với nhau có sự tách biệt về lợi ích.
    • Trong điều kiện đó, để tiêu dùng sản phẩm của người khác, người này phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. C. Mác đã nhấn mạnh rằng: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”.
    • Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất xuất hiện khách quan dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển, sự tách biệt về sở hữu càng sâu sắc, và hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.
    • Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
    • Vd: xã hội nguyên thủy có phân chia nhóm đi săn bắn, nhóm đi hái lượm, nhưng mà sau đó họ lại chia đều cho nhau nên ko có sự mua bán nào ở đây cả nên cũng không có hàng hóa → dù có phân công lao động xã hội nhưng không tách biệt kinh tế nên là ko có hình thành "sản xuất hàng hóa"

Kết luận:

Chỉ khi cả hai điều kiện trên cùng tồn tại, nền sản xuất hàng hóa mới có thể ra đời và phát triển. Nếu chỉ có sự phân công lao động xã hội mà không có sự tách biệt về mặt kinh tế (ví dụ, trong một nền kinh tế tự cấp tự túc hoặc công xã nguyên thủy nơi sản phẩm được phân phối chung), thì sản phẩm vẫn là sản phẩm được sản xuất để tiêu dùng nội bộ, chứ không phải để trao đổi dưới dạng hàng hóa. Do đó, việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa khi hai điều kiện này vẫn còn tồn tại sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Nền sản xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự túc.

2. Mọi hàng hóa đều là sản phẩm của lao động và mọi sản phẩm của lao động đều là hàng hóa.

Câu nhận định "Mọi hàng hóa đều là sản phẩm của lao động và mọi sản phẩm của lao động đều là hàng hóa"sai.

Để phân tích rõ hơn, chúng ta cần giải thích các khái niệm và từng vế của nhận định:

Vế 2: "Mọi sản phẩm của lao động đều là hàng hóa" là sai. Ví dụ, một người tự trồng rau để gia đình mình tiêu dùng, rau đó là sản phẩm của lao động nhưng không phải là hàng hóa vì không được tạo ra để bán.

3. Chiếc áo được mua với số tiền 400 000 đồng. 400 000 đồng gọi là giá trị của chiếc áo đó

giá trị của chiếc áo, về bản chất, là toàn bộ lao động xã hội (bao gồm lao động để sản xuất bông, dệt vải, cắt may, vận chuyển, v.v.) đã hao phí và kết tinh trong chiếc áo đó. Giá trị này là một đại lượng vô hình, chỉ có thể biểu hiện ra bên ngoài thông qua giá cả khi hàng hóa được đem ra trao đổi.

4. Quan hệ cung – cầu là yếu tố quyết định trước hết hình thành nên giá cả của hàng hóa.

5. Giá trị của hàng hóa được quyết định bởi công dụng của hàng hóa đó

Nhận định "Giá trị của hàng hóa được quyết định bởi công dụng của hàng hóa đó"sai.

Ví dụ:

Giá trị sử dụng: Gạo có giá trị sử dụng cao vì nó là thực phẩm thiết yếu, cung cấp dinh dưỡng và năng lượng cho con người.

Giá trị của gạo: Được quyết định bởi lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó (- nghĩa là toàn bộ lao động xã hội đã hao phí kết tinh trong gạo - bao gồm lao động để trồng lúa, bón phân, thu hoạch, xay xát, vận chuyển,...).

6. Giá cả của hàng hóa luôn bằng giá trị của nó

Câu nhận định "Giá cả của hàng hóa luôn bằng giá trị của nó"sai.

7. Tăng năng suất lao động xã hội làm giảm lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa (đúng)

Nhận định "Tăng năng suất lao động xã hội làm giảm lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa"đúng.

8. Để thu được giá trị thặng dư từ người lao động thì  thời gian lao động trong ngày phải lớn hơn thời gian lao động tất yếu. (đúng)

Câu nhận định "8. Để thu được giá trị thặng dư từ người lao động thì thời gian lao động trong ngày phải lớn hơn thời gian lao động tất yếu"đúng.

2. Phân tích**:**

9. Tiền công danh nghĩa đánh giá chính xác mức sống của người lao động hơn tiền công thực tế

Theo quan điểm của KTCT Mác-Lênin, nhận định trên là sai, vì

·       Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người lao động nhận được khi bán sức lao động của mình. Nó thể hiện giá trị tuyệt đối của thu nhập mà công nhân nhận được.

·       Tiền công thực tế là số lượng hàng hoá tiêu dùng va dịch vụ mà người lao động mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình

Theo KTCT Mác-Lênin, tiền công danh nghĩa không phải là chỉ số chính xác để

đánh giá mức sống của người lao động vì nó không phản ánh được sự biến động

của giá cả hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ, nếu tiền công danh nghĩa tăng nhưng giá

cả hàng hóa và dịch vụ tăng nhanh hơn, thì tiền công thực tế của người lao động

thực chất sẽ giảm, và do đó mức sống của họ cũng giảm.

Ngược lại, tiền công thực tế mới là chỉ số chính xác để đánh giá mức sống của

người lao động vì nó phản ánh số lượng hàng hóa và dịch vụ mà công nhân có

thể mua được với tiền lương của họ, tức là mức sống thực tế.

Ví dụ:

Năm 2024: Tiền công danh nghĩa: 3 triệu đồng/tháng.Chi phí hàng hóa và dịch

vụ: 2 triệu đồng/tháng.Tiền còn lại sau chi tiêu: 1 triệu đồng

Năm 2025: Tiền công danh nghĩa: 5 triệu đồng/tháng. Chi phí hàng hóa và dịch

vụ: 5 triệu đồng/tháng. Tiền còn lại sau chi tiêu: 0 đồng

Mặc dù tiền công danh nghĩa tăng từ 3 triệu lên 5 triệu đồng, tiền công thực tế

giảm vì chi phí hàng hóa và dịch vụ tăng, dẫn đến mức sống của người lao động

giảm.

11. Chủ tư bản trả tiền công cho người lao động đúng với giá cả của sức lao động  thì sẽ không thể thu được giá trị thặng dư.

Nhận định "Chủ tư bản trả tiền công cho người lao động đúng với giá cả của sức lao động thì sẽ không thể thu được giá trị thặng dư**”** là sai.

·        Tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động: Lao động của người làm thuê đã tạo ra giá trị mới, và một phần của giá trị mới này được dùng để tự trả cho tiền công của họ.

Nhưng mà một yếu tố không thể quên để hình thành được giá trị thặng dư đó là trình độ sản xuất phải đạt đến một trình độ nhất định để kể cả người chủ có trả giá cả đã thỏa thuận thì vẫn thu được giá trị mới dôi ra được.
Chính nhờ sự phát triển của lực lượng sản xuất và nâng cao năng suất lao động mà giá trị sức lao động trở nên rẻ hơn (vì tư liệu sinh hoạt cần thiết được sản xuất với ít lao động hơn), giúp rút ngắn thời gian lao động tất yếu. Từ đó, dù tiền công được trả "đúng với giá cả của sức lao động" (theo nguyên tắc ngang giá trong lý thuyết), nhà tư bản vẫn có thể thu được giá trị thặng dư do khả năng đặc biệt của sức lao động là tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó trong quá trình sử dụng

Ví dụ (trong giáo trình): Nhà tư bản bỏ ra 15 USD để mua sức lao động của công nhân sử dụng trong 8 giờ. Trong 4 giờ đầu (thời gian lao động tất yếu), công nhân tạo ra giá trị mới 15 USD, đủ bù đắp giá trị sức lao động. Tuy nhiên, công nhân vẫn tiếp tục làm việc 4 giờ nữa (thời gian lao động thặng dư) và tạo ra thêm 15 USD giá trị mới, mà phần này nhà tư bản không phải trả thêm tiền công. Khoản 15 USD này chính là giá trị thặng dư.

Tóm lại, việc chủ tư bản trả tiền công cho người lao động đúng với giá cả của sức lao động (theo nguyên tắc ngang giá) không ngăn cản việc thu được giá trị thặng dư. Điều này là do bản chất đặc biệt của hàng hóa sức lao động là có khả năng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của chính nó trong quá trình sử dụng.

Quote

Vì công nhân bán sức lao động và nhận được giá trị sức lao động hay tiền công trong thỏa thuận. Sau đó sức lao động được tiêu dùng để tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, khoảng chênh lệch giữa giá trị mới và giá trị sức lao động chính là giá trị thặng dư. Mục đích của nhà tư bản là làm thế nào để đạt được nhiều giá trị thặng dư hơn, nên mặc dù nhà tư bản trả công đúng giá trị sức lao động thì họ vẫn sẽ tìm nhiều cách để chiếm lấy nhiều giá trị thặng dư như tăng công suất lao động, tăng giờ lao động của công nhân lên, thay đổi hình thức trả tiền lương...

Kết luận: Nếu nhà tư bản trả đúng giá trị sức lao động cho công nhân thì nhà tư bản vẫn có giá trị thặng dư.

12. Tiền công thực chất là giá trị hàng hóa sức lao động.

Nhận định "Tiền công thực chất là giá trị hàng hóa sức lao động"sai.