KTCT hè 2025
C 1: Hãy phân tích những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và lấy ví dụ minh họa?
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một mô hình kinh tế thị trường đặc thù, phù hợp với điều kiện lịch sử, trình độ phát triển và hoàn cảnh chính trị - xã hội của Việt Nam. Mô hình này kết hợp những ưu điểm của kinh tế thị trường hiện đại với bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội, hướng tới một nền kinh tế văn minh.
Sau đây là những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
-
Về mục tiêu: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng tới phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Đây là sự khác biệt về mục tiêu so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, phản ánh mục tiêu chính trị - xã hội mà nhân dân Việt Nam phấn đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, nó còn gắn với xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp nhằm hoàn thiện cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội.
-
Ví dụ minh họa: Việc Chính phủ Việt Nam ưu tiên phát triển các ngành công nghệ cao và hạ tầng giao thông (nhằm phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất), đồng thời triển khai các chương trình an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững và phổ cập giáo dục (nhằm nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng và văn minh).
-
Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và cạnh tranh cùng phát triển. Mục tiêu là khuyến khích sự liên kết sâu rộng giữa các loại hình công hữu và tư hữu, cả trong và ngoài nước, để khai thác mọi nguồn lực và nâng cao hiệu quả kinh tế. Kinh tế nhà nước không đứng độc lập mà gắn bó hữu cơ với toàn bộ nền kinh tế, là đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hội.
-
Ví dụ minh họa: Sự hiện diện của các tập đoàn kinh tế nhà nước lớn như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) hay Tập đoàn Viettel (kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo), song song với sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp tư nhân như VinGroup hay FPT (kinh tế tư nhân là động lực quan trọng). Các dự án hợp tác công tư (PPP) trong lĩnh vực hạ tầng cũng thể hiện sự liên kết giữa các loại hình sở hữu.
-
Về quan hệ quản lý nền kinh tế: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo thông qua cương lĩnh, đường lối phát triển kinh tế - xã hội và các chủ trương, quyết sách lớn. Nhà nước quản lý bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và các công cụ kinh tế, tôn trọng nguyên tắc thị trường, đồng thời khắc phục những khuyết tật của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô.
-
Ví dụ minh họa: Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp để tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho các doanh nghiệp (Nhà nước quản lý thông qua pháp luật). Còn Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh lãi suất cơ bản hoặc tỷ giá hối đoái để ổn định kinh tế vĩ mô (sử dụng các công cụ kinh tế).
-
Về quan hệ phân phối: Thực hiện phân phối công bằng các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội phát triển. Kết quả làm ra được phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác, đồng thời thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Điều này nhằm xây dựng xã hội mọi người đều giàu có, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
-
Ví dụ minh họa: Việt Nam có Chính sách thuế thu nhập cá nhân lũy tiến (điều này thể hiện sự phân phối công bằng các yếu tố sản xuất). Hay là: việc doanh nghiệp trả lương, thưởng dựa trên năng suất và hiệu quả công việc của người lao động (thể hiện được sự phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế). Hoặc là: các chương trình bảo hiểm y tế toàn dân, trợ cấp cho người nghèo và người có công (đây là các hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội).
-
Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: Thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa - xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện ngay trong từng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển. Đây là thuộc tính quan trọng thể hiện định hướng xã hội chủ nghĩa, coi công bằng xã hội không chỉ là phương tiện duy trì tăng trưởng mà là mục tiêu phải hiện thực hóa, không "hy sinh" công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng đơn thuần.
-
Ví dụ minh họa_:_ Việt Nam có đầu tư vào giáo dục, y tế ở vùng sâu, vùng xa (đầu tư cho các vấn đề xã hội) mặc dù những việc này không mang lại lợi nhuận kinh tế tức thì, nhưng nó đảm bảo mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản (tiến bộ và công bằng xã hội). Chính sách hỗ trợ xây dựng nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp cũng là một ví dụ.
Những đặc trưng này cho thấy sự kết hợp linh hoạt giữa các quy luật thị trường và sự điều tiết của Nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Câu 2: Hãy phân tích những quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản ở Việt Nam hiện nay và lấy ví dụ minh họa?
Để phân tích các quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản ở Việt Nam hiện nay, chúng ta trước hết cần hiểu rõ các khái niệm về lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế.
1. Khái niệm lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế
- Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, là lợi ích thu được khi con người thực hiện các hoạt động kinh tế để thỏa mãn nhu cầu của mình. Về bản chất, lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ thể trong nền sản xuất xã hội. Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế - xã hội. Nó cũng là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác (chính trị, xã hội, văn hóa). Chỉ khi có sự đồng thuận, thống nhất giữa các lợi ích kinh tế thì lợi ích kinh tế mới thực hiện được vai trò của mình.
- Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với con người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế. Quan hệ lợi ích kinh tế có thể biểu hiện theo chiều dọc (giữa tổ chức và cá nhân trong đó) hoặc chiều ngang (giữa các chủ thể, cộng đồng, tổ chức khác nhau).
2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
Các quan hệ lợi ích kinh tế vừa có sự thống nhất, vừa có sự mâu thuẫn.
- Sự thống nhất: Quan hệ lợi ích kinh tế thống nhất vì một chủ thể có thể là bộ phận cấu thành của chủ thể khác, do đó, lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì lợi ích của chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực hiện. Ví dụ, doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, lợi ích doanh nghiệp được đảm bảo thì lợi ích của người lao động cũng được thực hiện tốt (việc làm, thu nhập ổn định). Ngược lại, người lao động tích cực làm việc, lợi ích của họ được thực hiện (tiền lương) đồng thời góp phần gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Sự mâu thuẫn: Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn vì các chủ thể kinh tế có thể hành động theo những phương thức khác nhau, thậm chí đối lập, để thực hiện lợi ích của mình. Ví dụ, việc sản xuất hàng giả, buôn lậu, trốn thuế của cá nhân, doanh nghiệp làm tổn hại lợi ích của người tiêu dùng và xã hội. Mâu thuẫn cũng phát sinh khi tại một thời điểm, kết quả hoạt động kinh tế là xác định, việc tăng thu nhập của chủ thể này (ví dụ, tăng lợi nhuận của người sử dụng lao động) có thể làm giảm thu nhập của chủ thể khác (ví dụ, giảm tiền lương của người lao động).
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
Các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều nhân tố:
- Trình độ phát triển của lực lượng sản động: Lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế càng tốt, quan hệ lợi ích kinh tế càng có điều kiện để thống nhất.
- Địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định vị trí, vai trò của mỗi chủ thể trong hoạt động kinh tế - xã hội, từ đó ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế.
- Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước: Chính sách này làm thay đổi mức thu nhập và tương quan thu nhập của các chủ thể, từ đó thay đổi lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể.
- Hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập có thể gia tăng lợi ích kinh tế từ thương mại và đầu tư quốc tế, nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp trong nước do cạnh tranh, hoặc gây ra các vấn đề như cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường.
4. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản ở Việt Nam hiện nay
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, có một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản sau:
-
Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động:
-
Khái niệm: Người lao động là người có thể lực và trí lực, bán sức lao động để nhận tiền lương. Người sử dụng lao động là chủ doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thuê mướn lao động để thu lợi nhuận.
-
Thống nhất: Người sử dụng lao động thu được lợi nhuận, tiếp tục sử dụng lao động, người lao động có việc làm, nhận lương. Ngược lại, người lao động làm việc tích cực, tăng năng suất, góp phần tăng lợi nhuận cho người sử dụng lao động.
-
Mâu thuẫn: Lợi nhuận của người sử dụng lao động tăng có thể làm giảm tiền lương của người lao động và ngược lại. Người sử dụng lao động tìm cách cắt giảm chi phí (kể cả tiền lương) để tăng lợi nhuận, trong khi người lao động đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm.
-
Ví dụ minh họa: Một công ty may mặc ở Việt Nam muốn tăng lợi nhuận, có thể tìm cách giảm chi phí nhân công bằng cách giữ mức lương thấp hoặc tăng định mức sản phẩm. Người lao động, thông qua công đoàn, có thể yêu cầu tăng lương hoặc cải thiện điều kiện làm việc để đảm bảo mức sống và tái sản xuất sức lao động.
-
Quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động:
-
Khái niệm: Các chủ thể sử dụng lao động (doanh nghiệp) vừa là đối tác, vừa là đối thủ của nhau trong cơ chế thị trường.
-
Thống nhất: Họ có thể liên kết, hỗ trợ lẫn nhau trong việc ứng xử với người lao động, vay vốn, thuê đất, hoặc chiếm lĩnh thị trường. Sự thống nhất này làm họ trở thành đội ngũ doanh nhân, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
-
Mâu thuẫn: Họ cạnh tranh quyết liệt với nhau để giành lợi thế trong sản xuất, kinh doanh, dẫn đến việc doanh nghiệp yếu kém bị thua lỗ, phá sản, trong khi doanh nghiệp có lợi thế phát triển nhanh chóng. Sự di chuyển vốn giữa các ngành nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất dẫn đến hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
-
Ví dụ minh họa: Trong ngành sản xuất nội thất ở Việt Nam, các công ty lớn có thể hợp tác để mua nguyên liệu số lượng lớn với giá ưu đãi hoặc chia sẻ kênh phân phối. Tuy nhiên, họ cũng cạnh tranh gay gắt về giá cả, mẫu mã, chất lượng sản phẩm để thu hút khách hàng, dẫn đến một số doanh nghiệp nhỏ hơn hoặc kém hiệu quả phải đóng cửa, trong khi các doanh nghiệp dẫn đầu ngày càng lớn mạnh.
-
Quan hệ lợi ích giữa những người lao động:
-
Khái niệm: Người lao động không chỉ quan hệ với người sử dụng lao động mà còn quan hệ với nhau trong việc bán sức lao động và tìm kiếm việc làm.
-
Thống nhất: Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người lao động (ví dụ thông qua công đoàn) có thể giúp họ thực hiện được các yêu sách của mình đối với giới chủ.
-
Mâu thuẫn: Khi có nhiều người muốn bán sức lao động (cung vượt cầu), người lao động phải cạnh tranh với nhau, dẫn đến giảm tiền lương hoặc bị sa thải.
-
Ví dụ minh họa: Ở các khu công nghiệp tại Việt Nam, khi có nhiều lao động từ các vùng nông thôn đổ về tìm việc, họ phải cạnh tranh gay gắt, đôi khi chấp nhận mức lương thấp hơn hoặc điều kiện làm việc kém hơn. Ngược lại, nếu người lao động ở một ngành nghề khan hiếm, họ có thể yêu cầu mức lương cao hơn và điều kiện tốt hơn.
-
Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội:
-
Khái niệm: Lợi ích cá nhân là lợi ích cơ bản của mỗi người. Lợi ích nhóm là lợi ích của các cá nhân, tổ chức hoạt động trong cùng ngành, lĩnh vực, liên kết để thực hiện tốt hơn lợi ích riêng. "Nhóm lợi ích" là liên kết giữa các cá nhân, tổ chức ở các ngành khác nhau nhưng có mối liên hệ để thực hiện lợi ích riêng của mình. Lợi ích xã hội là lợi ích chung của cộng đồng, quốc gia.
-
Thống nhất: Nếu các hoạt động kinh tế cá nhân, doanh nghiệp tuân thủ pháp luật và phát triển, sẽ góp phần vào lợi ích kinh tế xã hội. Khi xã hội phát triển, môi trường thuận lợi hơn cho cá nhân và doanh nghiệp. Lợi ích cá nhân là cơ sở, nền tảng của các lợi ích khác.
-
Mâu thuẫn: Nếu cá nhân, doanh nghiệp thực hiện các hành vi bất hợp pháp (làm hàng giả, trốn thuế...), lợi ích xã hội sẽ bị tổn hại. "Lợi ích nhóm" và "nhóm lợi ích" có thể gây tiêu cực nếu chúng mâu thuẫn với lợi ích quốc gia, lạm dụng quyền lực nhà nước để phục vụ lợi ích cá nhân.
-
Ví dụ minh họa:
-
Thống nhất: Một doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam đầu tư vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, tạo ra việc làm cho người lao động, nộp thuế cho nhà nước, và cung cấp sản phẩm có giá trị sử dụng cao cho xã hội. Đây là sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân của doanh nghiệp (lợi nhuận), lợi ích người lao động (thu nhập), và lợi ích xã hội (phát triển kinh tế, việc làm).
-
Mâu thuẫn: Một nhóm doanh nghiệp cấu kết với một số cán bộ nhà nước để thao túng thị trường, định giá cao bất hợp lý hoặc lách luật để trốn thuế, gây thất thoát ngân sách và thiệt hại cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Đây là biểu hiện của "nhóm lợi ích" tiêu cực. Chính phủ Việt Nam nhấn mạnh việc chống "lợi ích nhóm" và "sân sau" trong quản lý.
5. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có hai phương thức cơ bản để thực hiện lợi ích kinh tế:
- Thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường: Các chủ thể kinh tế căn cứ vào các nguyên tắc của thị trường để thực hiện lợi ích của mình.
- Thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò của các tổ chức xã hội: Để khắc phục những hạn chế của phương thức thị trường, nhà nước và các tổ chức xã hội can thiệp để tạo sự bình đẳng và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Tóm lại, các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay đa dạng và phức tạp, vừa mang tính thống nhất vừa tồn tại mâu thuẫn. Việc nhận diện, điều hòa và giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích này là rất quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
(xem lại) Câu 3: Phân tích tính tất yếu khách quan phải tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay? Liên hệ trách nhiệm của sinh viên đóng góp vào thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước? (lấy ví dụ minh họa cụ thể)
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ việc sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Hiện nay, Việt Nam phải tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tính tất yếu khách quan xuất phát từ những lý do cơ bản sau:
- CNH là quy luật phổ biến của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội: Mọi quốc gia đều phải trải qua quá trình này, dù là quốc gia phát triển sớm hay đi sau. CNH tạo ra động lực mạnh mẽ cho nền kinh tế, là đòn bẩy quan trọng tạo sự phát triển đột biến trong các lĩnh vực hoạt động của con người. Thông qua CNH, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân được trang bị tư liệu sản xuất, kỹ thuật - công nghệ ngày càng hiện đại, từ đó nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của con người.
- Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội: Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu thông qua CNH, HĐH. Mỗi bước tiến của quá trình CNH, HĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó từng bước nâng dần trình độ văn minh của xã hội.
- Phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế: CNH, HĐH nhằm khai thác, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, nâng cao dần tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Đồng thời, quá trình này thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa các ngành, các vùng trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế ngày càng hiệu quả.
- Củng cố khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức và tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh: Quá trình thực hiện CNH, HĐH làm cho khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức ngày càng được tăng cường, củng cố; đồng thời nâng cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. CNH, HĐH được thực hiện cũng sẽ tăng cường tiềm lực cho an ninh, quốc phòng, góp phần nâng cao sức mạnh của an ninh, quốc phòng, đồng thời tạo điều kiện vật chất và tinh thần để xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
- CNH, HĐH là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: Đây là khẳng định về tầm quan trọng chiến lược của CNH, HĐH đối với sự lựa chọn con đường phát triển của Đảng và Nhân dân Việt Nam.
Trách nhiệm của sinh viên đóng góp vào thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước:
Sự thích ứng với những tác động mới của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước hay doanh nghiệp mà là của toàn dân, mỗi công dân, trong đó mỗi sinh viên cần ý thức được những tác động mới để có giải pháp tích cực, phù hợp. Vai trò của sinh viên đặc biệt quan trọng trong bối cảnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để thích ứng với CMCN 4.0.
Để đóng góp vào thành công của quá trình CNH, HĐH, sinh viên cần:
- Nâng cao trình độ và năng lực bản thân: Cần chủ động, tích cực học tập, nghiên cứu khoa học để nắm vững tri thức, đặc biệt là tri thức liên quan đến khoa học - công nghệ mới, hiện đại. Sinh viên cần phát triển phẩm chất, năng lực của người học, không ngừng đổi mới và sáng tạo.
- Thích ứng với sự thay đổi của công nghệ: CMCN 4.0 đòi hỏi nguồn nhân lực phải được tri thức hóa nhanh chóng, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên. Sinh viên cần chuẩn bị kỹ năng làm việc trong môi trường tự động hóa cao, tin học hóa quản lý, xây dựng chuỗi cung ứng thông minh, và đảm bảo an ninh mạng.
- Định hướng nghề nghiệp phù hợp: Cần quan tâm đến các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học - công nghệ, có giá trị gia tăng cao. Đồng thời, cần sẵn sàng thích ứng với sự thay đổi về việc làm và thu nhập do tác động của CMCN 4.0.
- Phát huy tinh thần sáng tạo và đổi mới: Tận dụng cơ hội mà CMCN 4.0 mang lại để khởi nghiệp sáng tạo, thâm nhập thị trường ngách với nhiều sản phẩm, dịch vụ công nghệ mang tính đột phá, góp phần vào sự phát triển năng suất và giá trị cho nền kinh tế.
- Rèn luyện đạo đức và trách nhiệm xã hội: Bên cạnh việc theo đuổi lợi ích kinh tế cá nhân, sinh viên cần ý thức được trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội, đảm bảo các hành vi kinh tế của mình không gây tổn hại đến lợi ích chung.
Câu 4: Hãy phân tích những tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam và lấy ví dụ minh họa?
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình mà Việt Nam gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới, dựa trên sự chia sẻ lợi ích và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung. Quá trình này mang lại cả những tác động tích cực và tiêu cực đáng kể đối với sự phát triển của Việt Nam.
1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là một xu thế tất yếu mà còn mang lại những lợi ích to lớn cho sự phát triển của Việt Nam, cũng như những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng.
-
Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học - công nghệ và vốn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước.
-
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế kinh tế của Việt Nam trong phân công lao động quốc tế, phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
-
Hội nhập tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước.
-
Quá trình này còn góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa học - công nghệ hiện đại và vốn, từ đó tạo cơ hội tìm kiếm việc làm cả trong nước lẫn ngoài nước.
-
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
-
Ví dụ minh họa: Sau khi gia nhập WTO năm 2007 và ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như CPTPP hay EVFTA, Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc về xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, dệt may, điện tử sang các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản. Đồng thời, dòng vốn FDI tăng mạnh, mang theo công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến vào các ngành công nghiệp như điện tử (ví dụ: các dự án của Samsung, Intel).
-
Tạo cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia.
-
Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước, Việt Nam có thể nâng cao khả năng hấp thu khoa học - công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế.
-
Ví dụ minh họa: Các chương trình liên kết đào tạo giữa các trường đại học Việt Nam và quốc tế, việc thu hút chuyên gia nước ngoài, và việc các doanh nghiệp FDI tổ chức đào tạo nâng cao tay nghề cho lao động Việt Nam là những minh chứng cho tác động này.
-
Tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập của các lĩnh vực văn hóa, chính trị, củng cố an ninh - quốc phòng.
-
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
-
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh đến hội nhập chính trị, tạo điều kiện cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh.
-
Hội nhập giúp Việt Nam tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế trong các tổ chức chính trị, kinh tế toàn cầu.
-
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung như: môi trường, biến đổi khí hậu, phòng, chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
-
Ví dụ minh họa_:_ Việc Việt Nam tích cực tham gia và có tiếng nói trong các diễn đàn khu vực như ASEAN, APEC và các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, cũng như sự giao lưu văn hóa ngày càng đa dạng qua các sự kiện quốc tế, thể hiện rõ tác động này.
2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Bên cạnh những lợi ích, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều rủi ro, bất lợi và thách thức cho Việt Nam.
-
Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế của Việt Nam gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội.
-
Ví dụ minh họa: Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam, đặc biệt trong các ngành sản xuất truyền thống hoặc nông nghiệp, đã gặp khó khăn khi phải cạnh tranh trực tiếp với các sản phẩm nhập khẩu có giá thành thấp hơn hoặc chất lượng vượt trội. Một số doanh nghiệp không thể thích nghi và phải ngừng hoạt động.
-
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
-
Ví dụ minh họa: Khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 xảy ra, hoặc gần đây là đại dịch COVID-19, nền kinh tế Việt Nam đã chịu ảnh hưởng đáng kể do sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và sự sụt giảm nhu cầu từ các thị trường xuất khẩu lớn.
-
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng về lợi ích và rủi ro cho các nước, các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội.
-
Ví dụ minh họa: Sự phát triển nhanh chóng của các khu công nghiệp, đô thị hóa có thể tạo ra thu nhập cao cho một bộ phận dân cư nhưng cũng có thể làm trầm trọng thêm vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn, hoặc giữa lao động có kỹ năng và lao động phổ thông.
-
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu.
-
Hệ quả là dễ trở thành bãi thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao.
-
Ví dụ minh họa: Các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp điện tử hoặc dệt may thường có giá trị gia tăng thấp và phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu. Sự phát triển nóng của một số khu công nghiệp đã gây ra ô nhiễm môi trường cục bộ (ví dụ: các sự cố ô nhiễm nước, không khí ở một số địa phương có nhiều nhà máy).
-
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
-
Ví dụ minh họa: Các vụ việc buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, rửa tiền gia tăng, hoặc các tranh chấp thương mại quốc tế có thể đặt ra thách thức cho công tác quản lý của Nhà nước.
-
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
-
Ví dụ minh họa: Xu hướng tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ văn hóa nước ngoài (phim ảnh, âm nhạc, ẩm thực) có thể làm giảm sự quan tâm đến các giá trị văn hóa truyền thống trong một bộ phận giới trẻ.
-
Hội nhập cũng có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp.
-
Ví dụ minh họa: Sự gia tăng về du lịch và giao thương quốc tế cũng đi kèm với thách thức trong kiểm soát dịch bệnh lây lan qua biên giới, hay các hoạt động nhập cư, lao động trái phép.
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả rất khó lường. Do đó, việc tranh thủ thời cơ và vượt qua thách thức là vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng đối với Việt Nam.
CÁC CÂU NHẬN ĐỊNH
1. Điều kiện cần và đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển là sự phân công lao động xã hội.
-
Nhận định: Sai.
-
Giải thích:
-
Sản xuất hàng hóa: Là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán. Một sản phẩm của lao động chỉ trở thành hàng hóa khi được đưa ra nhằm mục đích trao đổi, mua bán trên thị trường.
-
Phân công lao động xã hội: Là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau.
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài người. Nền kinh tế hàng hóa chỉ có thể hình thành và phát triển khi có hai điều kiện cơ bản sau đây cùng tồn tại:
-
Một là, phân công lao động xã hội.
- Khi mỗi người sản xuất chỉ tập trung vào một hoặc một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau, thì tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau để thỏa mãn nhu cầu của mình. Đây là điều kiện cần nhưng chưa đủ.
-
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
- Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho những người sản xuất độc lập với nhau có sự tách biệt về lợi ích.
- Trong điều kiện đó, để tiêu dùng sản phẩm của người khác, người này phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. C. Mác đã nhấn mạnh rằng: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”.
- Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất xuất hiện khách quan dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển, sự tách biệt về sở hữu càng sâu sắc, và hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.
- Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
- Vd: xã hội nguyên thủy có phân chia nhóm đi săn bắn, nhóm đi hái lượm, nhưng mà sau đó họ lại chia đều cho nhau nên ko có sự mua bán nào ở đây cả nên cũng không có hàng hóa → dù có phân công lao động xã hội nhưng không tách biệt kinh tế nên là ko có hình thành "sản xuất hàng hóa"
Kết luận:
Chỉ khi cả hai điều kiện trên cùng tồn tại, nền sản xuất hàng hóa mới có thể ra đời và phát triển. Nếu chỉ có sự phân công lao động xã hội mà không có sự tách biệt về mặt kinh tế (ví dụ, trong một nền kinh tế tự cấp tự túc hoặc công xã nguyên thủy nơi sản phẩm được phân phối chung), thì sản phẩm vẫn là sản phẩm được sản xuất để tiêu dùng nội bộ, chứ không phải để trao đổi dưới dạng hàng hóa. Do đó, việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa khi hai điều kiện này vẫn còn tồn tại sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Nền sản xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự túc.
2. Mọi hàng hóa đều là sản phẩm của lao động và mọi sản phẩm của lao động đều là hàng hóa.
Câu nhận định "Mọi hàng hóa đều là sản phẩm của lao động và mọi sản phẩm của lao động đều là hàng hóa" là sai.
Để phân tích rõ hơn, chúng ta cần giải thích các khái niệm và từng vế của nhận định:
-
Hàng hóa:
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có khả năng thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.→ vế 1 "Mọi hàng hóa đều là sản phẩm của lao động" là đúng.
-
Sản phẩm của lao động:
- Đây là bất kỳ vật phẩm hay dịch vụ nào được tạo ra từ quá trình hao phí sức lao động của con người.
- Một sản phẩm của lao động chỉ trở thành hàng hóa khi nó được đưa ra nhằm mục đích trao đổi, mua bán trên thị trường.
- Điểm quan trọng là, không phải mọi sản phẩm của lao động đều nhất thiết được sản xuất ra để trao đổi, mua bán.
- Vd: bà A trồng rau và ko bán mà chỉ giữ lại để ăn thì rau đấy ko p hàng hóa. Nhưng nếu bà ấy đem rau ra chợ để trao đổi mua bán thì rau lúc đấy mới là hàng hóa.
→ Vế 2: "Mọi sản phẩm của lao động đều là hàng hóa" là sai. Ví dụ, một người tự trồng rau để gia đình mình tiêu dùng, rau đó là sản phẩm của lao động nhưng không phải là hàng hóa vì không được tạo ra để bán.
3. Chiếc áo được mua với số tiền 400 000 đồng. 400 000 đồng gọi là giá trị của chiếc áo đó
-
Nhận định: Sai.
-
Giải thích:
-
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Nó là nội dung bên trong, là cơ sở khách quan cho việc trao đổi hàng hóa. Khi trao đổi, người ta ngầm so sánh lượng lao động đã hao phí ẩn giấu trong hàng hóa với nhau.
-
Giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, là vật ngang giá chung cho thế giới hàng hóa, và là hình thái biểu hiện của giá trị.
-
Do đó, 400.000 đồng là giá cả của chiếc áo, chứ không phải giá trị của nó. Giá trị là cơ sở của giá cả, tức là nếu giá trị của hàng hóa lớn thì giá cả có thể cao và ngược lại. Tuy nhiên, giá cả có thể biến động lên xuống so với giá trị thực của nó do nhiều yếu tố khác như giá trị của bản thân tiền tệ hoặc quan hệ cung – cầu trên thị trường.
→ giá trị của chiếc áo, về bản chất, là toàn bộ lao động xã hội (bao gồm lao động để sản xuất bông, dệt vải, cắt may, vận chuyển, v.v.) đã hao phí và kết tinh trong chiếc áo đó. Giá trị này là một đại lượng vô hình, chỉ có thể biểu hiện ra bên ngoài thông qua giá cả khi hàng hóa được đem ra trao đổi.
4. Quan hệ cung – cầu là yếu tố quyết định trước hết hình thành nên giá cả của hàng hóa.
-
Nhận định: Sai.
-
Giải thích: giá trị của hàng hóa mới là yếu tố quyết định.
-
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Giá trị mới là cơ sở và yếu tố nền tảng để hàng hóa có giá cả. Một hàng hóa phải có lao động xã hội kết tinh trong nó (tức là có giá trị) thì mới có thể có giá cả trên thị trường.
-
Quan hệ cung – cầu là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường. Quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả bằng cách làm cho giá cả biến động xoay quanh giá trị. Cụ thể:
- Nếu cung lớn hơn cầu, giá cả có xu hướng thấp hơn giá trị.
- Nếu cung nhỏ hơn cầu, giá cả có xu hướng cao hơn giá trị.
- Nếu cung bằng cầu, giá cả có xu hướng bằng giá trị.
-
Kết luận: Quan hệ cung – cầu có vai trò quan trọng trong việc điều tiết và làm biến động giá cả trên thị trường, nhưng không phải là yếu tố "quyết định trước hết" việc hình thành giá cả. Giá trị mới là yếu tố nền tảng quyết định bản chất và lượng cơ bản của giá cả.
5. Giá trị của hàng hóa được quyết định bởi công dụng của hàng hóa đó
Nhận định "Giá trị của hàng hóa được quyết định bởi công dụng của hàng hóa đó" là sai.
- Giá trị sử dụng (công dụng) của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong quá trình sử dụng hay tiêu dùng. Nó là yếu tố cần thiết để hàng hóa được trao đổi, nhưng không phải là yếu tố quyết định giá trị. Công dụng giữa các hàng hóa không phải là điểm chung cho phép chúng trao đổi được với nhau.
- Giá trị của hàng hóa được quyết định bởi lượng lao động xã hội đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó và kết tinh trong hàng hóa. Điểm chung duy nhất cho phép các hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau trao đổi được với nhau là chúng đều là sản phẩm của lao động, và một lượng lao động bằng nhau đã hao phí để tạo ra chúng. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ sở của trao đổi.
Ví dụ:
Giá trị sử dụng: Gạo có giá trị sử dụng cao vì nó là thực phẩm thiết yếu, cung cấp dinh dưỡng và năng lượng cho con người.
Giá trị của gạo: Được quyết định bởi lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó (- nghĩa là toàn bộ lao động xã hội đã hao phí kết tinh trong gạo - bao gồm lao động để trồng lúa, bón phân, thu hoạch, xay xát, vận chuyển,...).
6. Giá cả của hàng hóa luôn bằng giá trị của nó
Câu nhận định "Giá cả của hàng hóa luôn bằng giá trị của nó" là sai.
-
- Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa - giá trị sử dụng(công dụng) và (phân biệt với lượng giá trị: lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, nó là sự đo lường của giá trị thông qua thời gian lao động xh cần thiết)
-
- Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa và chịu ảnh hưởng bởi do tác động của nhiều yếu tố.
- Tuy nhiên, giá cả trên thị trường không phải lúc nào cũng bằng giá trị của nó. Giá cả có thể lên xuống do tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt là quan hệ cung – cầu và giá trị của bản thân tiền tệ.
- VD:
- Giá trị của gạo: Được quyết định bởi lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó (- nghĩa là toàn bộ lao động xã hội đã hao phí kết tinh trong gạo - bao gồm lao động để trồng lúa, bón phân, thu hoạch, xay xát, vận chuyển,...).
- Thông thường họ bán 3 đồng/cân chẳng hạn, nhưng vd như có dịch bệnh thiên tai, nhiều người cần mua gạo về tích trữ thì nhu cầu cao và họ bán 5đồng/cân chẳng hạn → rõ ràng là giá trị của gạo thì vẫn cần những lao động xã hội cần thiết như thế, nhưng giá cả thì đã đổi do cung cầu → không thể giá cả luôn bằng giá trị được.
7. Tăng năng suất lao động xã hội làm giảm lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa (đúng)
Nhận định "Tăng năng suất lao động xã hội làm giảm lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa" là đúng.
- Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao phí để tạo ra hàng hóa, và nó được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó trong những điều kiện bình thường của xã hội với trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình.
- Năng suất lao động xã hội là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
- Khi năng suất lao động tăng lên, điều đó có nghĩa là người lao động có thể tạo ra nhiều sản phẩm hơn trong cùng một đơn vị thời gian, hoặc hao phí ít thời gian lao động hơn cho mỗi đơn vị sản phẩm. Điều này trực tiếp làm giảm lượng thời gian lao động cần thiết trong một đơn vị hàng hóa, và do đó, làm giảm lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa. C. Mác khẳng định: “đại lượng giá trị của một hàng hóa thay đổi theo tỷ lệ thuận với lượng lao động thể hiện trong hàng hóa đó và tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của lao động đó”.
8. Để thu được giá trị thặng dư từ người lao động thì thời gian lao động trong ngày phải lớn hơn thời gian lao động tất yếu. (đúng)
Câu nhận định "8. Để thu được giá trị thặng dư từ người lao động thì thời gian lao động trong ngày phải lớn hơn thời gian lao động tất yếu" là đúng.
- Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra. Nó là kết quả của lao động không công của công nhân cho nhà tư bản.
- Thời gian lao động trong ngày: Là tổng thời gian lao động mà người lao động phải thực hiện trong một ngày làm việc theo thỏa thuận. Về cơ bản, nó bao gồm thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư.
- Thời gian lao động tất yếu: tgian lao dộng mà người lao động hao phí sức lao động của mình để bù đắp được giá trị hàng hóa sức lao động (tức là giá trị mà họ cần để duy trì cuộc sống của mình và gia đình họ - thông qua tiền lương).
- Thời gian lao động thặng dư**:** Là phần thời gian lao động còn lại trong ngày, ngoài thời gian lao động tất yếu, mà người lao động phải làm việc dưới sự quản lý của người mua hàng hóa sức lao động (nhà tư bản), và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
2. Phân tích**:**
- Theo lý luận của C. Mác, giá trị thặng dư được tạo ra từ thời gian lao động thặng dư.
- Điều này có nghĩa là, để có "thời gian lao động thặng dư" (tức là thời gian lao động tạo ra giá trị thặng dư), người lao động bắt buộc phải làm việc vượt quá thời gian lao động tất yếu.
- Do đó, tổng thời gian lao động trong ngày của người lao động phải lớn hơn thời gian lao động tất yếu để tạo ra phần dôi ra là thời gian lao động thặng dư, và từ đó thu được giá trị thặng dư. Nếu thời gian lao động trong ngày chỉ bằng hoặc ít hơn thời gian lao động tất yếu, thì sẽ không có giá trị thặng dư được tạo ra.
9. Tiền công danh nghĩa đánh giá chính xác mức sống của người lao động hơn tiền công thực tế
Theo quan điểm của KTCT Mác-Lênin, nhận định trên là sai, vì
· Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người lao động nhận được khi bán sức lao động của mình. Nó thể hiện giá trị tuyệt đối của thu nhập mà công nhân nhận được.
· Tiền công thực tế là số lượng hàng hoá tiêu dùng va dịch vụ mà người lao động mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình
Theo KTCT Mác-Lênin, tiền công danh nghĩa không phải là chỉ số chính xác để
đánh giá mức sống của người lao động vì nó không phản ánh được sự biến động
của giá cả hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ, nếu tiền công danh nghĩa tăng nhưng giá
cả hàng hóa và dịch vụ tăng nhanh hơn, thì tiền công thực tế của người lao động
thực chất sẽ giảm, và do đó mức sống của họ cũng giảm.
Ngược lại, tiền công thực tế mới là chỉ số chính xác để đánh giá mức sống của
người lao động vì nó phản ánh số lượng hàng hóa và dịch vụ mà công nhân có
thể mua được với tiền lương của họ, tức là mức sống thực tế.
Ví dụ:
Năm 2024: Tiền công danh nghĩa: 3 triệu đồng/tháng.Chi phí hàng hóa và dịch
vụ: 2 triệu đồng/tháng.Tiền còn lại sau chi tiêu: 1 triệu đồng
Năm 2025: Tiền công danh nghĩa: 5 triệu đồng/tháng. Chi phí hàng hóa và dịch
vụ: 5 triệu đồng/tháng. Tiền còn lại sau chi tiêu: 0 đồng
Mặc dù tiền công danh nghĩa tăng từ 3 triệu lên 5 triệu đồng, tiền công thực tế
giảm vì chi phí hàng hóa và dịch vụ tăng, dẫn đến mức sống của người lao động
giảm.
11. Chủ tư bản trả tiền công cho người lao động đúng với giá cả của sức lao động thì sẽ không thể thu được giá trị thặng dư.
Nhận định "Chủ tư bản trả tiền công cho người lao động đúng với giá cả của sức lao động thì sẽ không thể thu được giá trị thặng dư**”** là sai.
· Tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động: Lao động của người làm thuê đã tạo ra giá trị mới, và một phần của giá trị mới này được dùng để tự trả cho tiền công của họ.
-
Sức lao động là hàng hóa đặc biệt: Sức lao động là khả năng lao động của người công nhân, được bán cho chủ tư bản dưới dạng một loại hàng hóa (khi người lao động không có đủ tư liệu sản xuất cần thiết để tự tạo ra spham để bán, nên họ buộc phải bán sức lao động của mình)
-
Giá trị của hàng hóa sức lao động: Giá trị của sức lao động được xác định dưa trên chi phí cần thiết để duy trì và tái sản xuất sức lao động(tức là các chi phí sinh hoạt của người công nhân và gia đình họ).
-
Giá trị sử dụng đặc biệt của hàng hóa sức lao động: Điểm then chốt là giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có một "tính năng đặc biệt mà không hàng hóa thông thường nào có được, đó là trong khi sử dụng nó, không những giá trị của nó được bảo tồn mà còn tạo ra được lượng giá trị lớn hơn". Khả năng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn chính giá trị của bản thân nó là "chìa khóa" chỉ rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư.
-
Sự hình thành giá trị thặng dư ngay cả khi trao đổi ngang giá:
-
Trong một ngày lao động, người công nhân sẽ làm việc trong tổng thời gian đã được nhà tư bản mua (ví dụ 8 giờ).
-
Một phần của thời gian lao động này là "thời gian lao động tất yếu", là khoảng thời gian người lao động tạo ra lượng giá trị đủ để bù đắp giá trị của sức lao động (tức là đủ để trả tiền công của họ theo nguyên tắc ngang giá).
-
Phần thời gian còn lại, ngoài thời gian lao động tất yếu, là "thời gian lao động thặng dư". Trong khoảng thời gian này, người lao động vẫn tiếp tục tạo ra giá trị mới, nhưng giá trị này "dôi ra ngoài giá trị sức lao động" và không được trả công. Phần giá trị dôi ra này chính là giá trị thặng dư (m).
Nhưng mà một yếu tố không thể quên để hình thành được giá trị thặng dư đó là trình độ sản xuất phải đạt đến một trình độ nhất định để kể cả người chủ có trả giá cả đã thỏa thuận thì vẫn thu được giá trị mới dôi ra được.
Chính nhờ sự phát triển của lực lượng sản xuất và nâng cao năng suất lao động mà giá trị sức lao động trở nên rẻ hơn (vì tư liệu sinh hoạt cần thiết được sản xuất với ít lao động hơn), giúp rút ngắn thời gian lao động tất yếu. Từ đó, dù tiền công được trả "đúng với giá cả của sức lao động" (theo nguyên tắc ngang giá trong lý thuyết), nhà tư bản vẫn có thể thu được giá trị thặng dư do khả năng đặc biệt của sức lao động là tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó trong quá trình sử dụng
Ví dụ (trong giáo trình): Nhà tư bản bỏ ra 15 USD để mua sức lao động của công nhân sử dụng trong 8 giờ. Trong 4 giờ đầu (thời gian lao động tất yếu), công nhân tạo ra giá trị mới 15 USD, đủ bù đắp giá trị sức lao động. Tuy nhiên, công nhân vẫn tiếp tục làm việc 4 giờ nữa (thời gian lao động thặng dư) và tạo ra thêm 15 USD giá trị mới, mà phần này nhà tư bản không phải trả thêm tiền công. Khoản 15 USD này chính là giá trị thặng dư.
Tóm lại, việc chủ tư bản trả tiền công cho người lao động đúng với giá cả của sức lao động (theo nguyên tắc ngang giá) không ngăn cản việc thu được giá trị thặng dư. Điều này là do bản chất đặc biệt của hàng hóa sức lao động là có khả năng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của chính nó trong quá trình sử dụng.
Vì công nhân bán sức lao động và nhận được giá trị sức lao động hay tiền công trong thỏa thuận. Sau đó sức lao động được tiêu dùng để tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, khoảng chênh lệch giữa giá trị mới và giá trị sức lao động chính là giá trị thặng dư. Mục đích của nhà tư bản là làm thế nào để đạt được nhiều giá trị thặng dư hơn, nên mặc dù nhà tư bản trả công đúng giá trị sức lao động thì họ vẫn sẽ tìm nhiều cách để chiếm lấy nhiều giá trị thặng dư như tăng công suất lao động, tăng giờ lao động của công nhân lên, thay đổi hình thức trả tiền lương...
Kết luận: Nếu nhà tư bản trả đúng giá trị sức lao động cho công nhân thì nhà tư bản vẫn có giá trị thặng dư.
12. Tiền công thực chất là giá trị hàng hóa sức lao động.
Nhận định "Tiền công thực chất là giá trị hàng hóa sức lao động" là sai.
- Tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động. Nó là khoản tiền mà người lao động nhận được khi bán sức lao động của mình.
- Giá trị hàng hóa sức lao động là lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị này được xác định thông qua giá trị của các tư liệu sinh hoạt cần thiết (vật chất và tinh thần) để duy trì người lao động, phí tổn đào tạo, và và gia đình họ. - nghĩa là được xác định dưa trên chi phí cần thiết để duy trì và tái sản xuất sức lao động(tức là các chi phí sinh hoạt của người công nhân và gia đình họ).
- Mặc dù tiền công được xác định dựa trên giá trị sức lao động, nhưng nó không phản ánh hết được giá trị của sức lao động, tiền công chỉ là giá cả của sức lao động thôi. Giá cả có thể biến động (lên hoặc xuống) so với giá trị do các yếu tố thị trường như cung – cầu hoặc giá trị của tiền.
- Thực tế: Trên thị trường, rất khó để tiền công phản ánh đúng lượng giá trị đầy đủ của sức lao động.
- VD: người lao động cần 10tr/tháng mới đủ để tái tạo sức lao động của mình (ăn ở, chữa bệnh, nuôi con,…) – đây là giá trị của hàng hóa sức lao động. Nhưng do thị trường đang có nhiều ng tìm việc hơn so với số việc làm (cung > cầu) → chủ thuê chỉ trả 8tr/tháng thôi → tiền công 8tr không bằng với giá trị của hàng hóa sức lao động là 10tr.
- Kết luận: Tiền công là giá cả, tức là hình thức bên ngoài của giá trị sức lao động, chứ không phải là bản thân giá trị đó.